19 thg 8, 2018

Kết quả hình ảnh cho nghị quyết trung ương 7
Đây là bài thu hoạch dành cho cán bộ, đảng viên sau khi học tập, quán triệt Nghị quyết trung ương lần thứ bảy (Khóa XII), bài mang tính khái quát, những vấn đề cơ bản nhất của Hội nghị lần thứ 7. Bạn có thể copy về và sửa lại phần nhận thức, liên hệ của bản thân cho phù hợp với chức trách, nhiệm vụ theo từng cơ quan, đơn vị mình (nếu thấy cần thiết), còn không thì cứ thế mà chép vào là OK rồi. Chúc các bạn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thân!



ĐẢNG BỘ KHOA KHXH&NV
CHI BỘ 3


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Khánh Hòa, ngày ... tháng ... năm 2018

BÀI THU HOẠCH
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII)

Họ và tên: ..................................................
Cấp bậc: ................................................... 
Chức vụ: ..................................................
Chức vụ đảng: ........................................
Đơn vị: ......................................................
Qua học tập các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII), bản thân đã học tập, quán triệt được các vấn đề sau đây:



1. Những điểm mới, quan điểm, mục tiêu, giải pháp trong các nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) 

1.1. Nghị quyết số 26-NQ/TW về "Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ".
Nghị quyết đặt ra mục tiêu tổng quát: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Về mục tiêu cụ thể, Nghị quyết nêu rõ, đến năm 2020, thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Đến năm 2025, tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hóa, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác; xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.
Đến năm 2030, xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Nghị quyết đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Đó là nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ; kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ; nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ; một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc. Đồng thời nhằm thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ giải pháp nêu trên, Nghị quyết đã xác định hai trọng tâm và năm đột phá.
1.2. Nghị quyết số 27-NQ/TW về "Cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp"
Mục tiêu là xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ; tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đời sống của người hưởng lương và gia đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Nghị quyết nêu những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quan điểm, mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp. Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, phương pháp, cách làm, tạo sự đồng thuận cao ở các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, người hưởng lương và toàn xã hội trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách tiền lương.
Nghị quyết chỉ rõ, khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống vị trí việc làm, coi đây là giải pháp căn bản mang tính tiền đề để thực hiện cải cách tiền lương. Xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới. Quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách, coi đây là nhiệm vụ đột phá để tạo nguồn lực cho cải cách chính sách tiền lương. Triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII và các đề án đổi mới, cải cách trong các ngành, lĩnh vực có liên quan là công việc rất quan trọng để cải cách chính sách tiền lương một cách đồng bộ. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức CT-XH
1.3. Nghị quyết số 28-NQ/TW về "Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội".
Nghị quyết hướng đến mục tiêu để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững;
Nghị quyết xác định thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; bảo đảm cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
Nghị quyết nêu rõ: Tập trung xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng; Sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng-hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác; Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ. Cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội; đẩy nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi chính thức.
Sửa đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần, tăng tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế của người lao động; thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình; Sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; điều chỉnh tỷ lệ tích lũy để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế; đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả. Thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
Nghị quyết đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu về bảo hiểm xã hội: tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách bảo hiểm xã hội; hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội.

2. Nhận thức và trách nhiệm của bản thân trong việc học tập, quán triệt các Nghị quyết của Đảng

Việc học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng là khâu đầu tiên và rất quan trọng nhằm tạo ra sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, là tiền đề vững chắc bảo đảm cho sự thành công trong tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Vì vậy, học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng là nhiệm vụ quan trọng, là điều kiện tiên quyết đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống.
Là một Đảng viên, tôi ý thức và quan tâm đến từng vấn đề mà nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã đề ra. Bản thân cần tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân những vấn đề cấp thiết mà Nghị quyết đã nêu. Bên cạnh đó, tôi cũng cần xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc ta trong quá trình đổi mới. Tập trung vào các vấn đề sau:
          - Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Trung thành với nền tảng tư tưởng của Ðảng.
          - Quán triệt và thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
          - Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ.
          - Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
          - Kết hợp học tập nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng với thường xuyên rèn luyện đạo đức, tác phong công tác, thường xuyên học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

25 thg 8, 2016

Showgame này mình tham gia tháng 02/2015. Lên ghế nóng hơi bị tâm lý nên chơi không thật hay. Mong mọi người thông cảm nhé.
Cảm ơn mọi người đã xem và cổ vũ ...!

15 thg 8, 2016





Các em khối sinh viên thân mến !
Các em đã cố gắng học tập trong đợt này, nắm được các kiến thức cơ bản của học phần 1. Tuy nhiên quá trình làm bài nhiều em còn chưa hết ý, liên hệ vận dụng với bản thân còn chung chung, chưa sát nên kết quả chưa được tốt và có thể chưa được như ý các em. Vì vậy trong học tập các em cần cố gắng hơn nhé.
Các em có thể xem kết quả bằng cách bấm vào link phía dưới và tải về để xem.
Mọi vướng mắc về quá trình học tập (hoặc về kết quả) có thể trao đổi với thầy qua địa chỉ: hoaiphuong.sqtt@gmail.com
Chúc các em thành công trong học tập và cuộc sống! 
Kết quả GDQP, AN khối 3 :
http://www.mediafire.com/download/u47dda7lvvdd6i9/diem+hoc+phan+1+%28lop+3-TBD%29.pdf

7 thg 8, 2016

Giáo trình Giáo dục QP, AN học phần 1 dành cho sinh viên Đại học, Cao đẳng, gồm 7 bài với thời gian 45 tiết (kể cả kiểm tra thành phần và kết thúc học phần).

Các em có thể tải về ở link này.

12 thg 12, 2015

Tác giả: Văn Giá - Tạp chí Nghiên cứu Văn Hóa (ĐH Văn Hóa Hà Nội)

Tóm tắt
Nền khoa cử giáo dục thời phong kiến ở Việt Nam kéo dài gần 10 thế kỷ nếu tính từ khi thành lập Văn Miếu Quốc Tử Giám- kiểu trường Đại học đầu tiên ở nước ta. Bên cạnh những đóng góp không thể phủ nhận mà nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, nền giáo dục này cũng để lại những hạn chế khá nghiêm trọng cả trên thực tế lẫn tâm thức xã hội. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới nền giáo dục nước ta suốt từ sau 1954 cho đến nay. Bài viết này tiến hành phân tích những biểu hiện mang tính tiêu cực đó đối với nền giáo dục nói riêng và văn hóa- xã hội đương đại nói chung.
Như đã thấy, nền giáo dục thời phong kiến ở nước ta, nếu lấy mốc bắt đầu từ khi có Quốc tử giám (1075), kéo dài khoảng gần 10 thế kỷ; nếu lấy mốc từ khi thái thú Sỹ Nhiếp sang mở trường dạy học chữ nho tại Luy Lâu thì còn dài hơn nữa. Nền giáo dục này đã sản sinh ra một đội ngũ trí thức khá hùng hậu, trong đó có nhiều bậc đại trí thức làm rạng danh nền văn hiến Việt Nam. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, do kéo dài quá lâu một mô thức đào tạo, nên chế độ giáo dục này đã bộc lộ nhiều hạn chế khá trầm trọng. Và đến lượt mình, nó đã để lại những di chứng khá nặng nề cho nền giáo dục sau này, kéo dài đến tận hôm nay, cả trên phương diện thực tế lẫn trên phương diện tâm thức.
Bài viết này bước đầu chỉ ra một số căn bệnh của nền giáo dục phong kiến trước đây, ngõ hầu đưa ra một tham chiếu để nhìn vào thực trạng giáo dục hiện nay.
1. Theo tôi, điều dễ nhận thấy trước tiên của nền giáo dục phong kiến là đã tạo lập một cách học thuộc lòng chứ không theo cách học sáng tạo. Các nho sinh ban đầu học chữ. Học chữ bắt đầu bằng những nét bút đầu tiên, cách phiên âm đầu tiên. Sau đó, dần dần bước vào những sách khó hơn, và khó nhất là Tứ thư, Ngũ kinh của Trung Quốc. Cách học này trước hết là học thuộc chữ, sau đó giải thích những chữ đó (rộng ra là văn bản) cũng phải theo cách người trước đã giải thích, tức là lấy Trung Hoa làm mẫu mực, chỉ có một cách duy nhất học thuộc lòng, chứ không có cách giải thích khác theo cách hiểu cá nhân. Nếu ai cố tình giải thích theo cách hiểu của mình sẽ bị đánh trượt trong các kỳ thi chính thức. Thi cử chính là cách người thi thể hiện xem có khả năng thuộc lòng các chữ thánh hiền không, có năng lực nhớ và viết lại cách giải thích, bình luận đã có sẵn trong các sách kinh điển không. Nó không chấp nhận sáng tạo. Chính vì vậy, trong lịch sử thi cử, có một số cá nhân vượt trội trong khi đi thi, do không chịu khuôn theo những điển mẫu có sẵn trong sách, cứ muốn trồi ra những ý tưởng xuất sắc của mình, nên đã bị đánh trượt. Ví dụ như cụ Trần Tế Xương (Tú Xương, 1870-1907) chẳng hạn, nho sinh xuất sắc này thi trầy trật mới có thể đỗ được, mà cũng chỉ đỗ đến bậc tú tài. Số phận của nhà nho xuất sắc Cao Bá Quát (1808-1855) chỉ đỗ cử nhân, trượt thi Hội; hay nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu (1867-1940) cũng không hơn gì: đỗ đạt cao nhất chỉ đến bậc Giải nguyên trường Nghệ(1).
Học thuộc lòng tức là học theo điển mẫu, điển phạm trong nền văn hóa Trung Hoa. Nếu viết khác, nói khác những gì trong sách Trung Hoa đã có tức là sai. Cách học này chỉ giáo dục con người học theo cách thụ động, biến người học thành kẻ chỉ biết nghĩ theo, nói theo, chứ không nghĩ và nói bằng chủ kiến của mình. Trong nền giáo dục này, đại đa số các nho sinh đều thấm đẫm tinh thần học thụ động, máy móc này. Nó tạo ra những con người bắt chước chứ không tạo ra con người sáng tạo.
Tuy nhiên vẫn cần mở ngoặc là thời nào cũng có những cá nhân vượt trội, tức là họ đủ mạnh để bứt phá ra khỏi cách đi của đám đông, tự khẳng định mình, góp phần vào tiến trình tri thức chung của đất nước, mặc dù số này không thể nói là nhiều.
2. Đặc điểm thứ hai của chế độ học hành khoa cử phong kiến là coi mục đích của việc học cốt để đi thi, chứ không phải học do nhu cầu muốn được trang bị tri thức. Phải công bằng mà nói, người Việt ta xưa kia cũng có tinh thần hiếu học. Mỗi gia đình người Việt, tuy có thể nghèo khó, nhưng thường đều mong muốn cho con em mình được học chữ thánh hiền. Học trước là để biết được cách khấn khứa trước ban thờ tổ tiên, sau là để biết ghi chép gia phả dòng tộc, sau nữa để qua đó mà giáo dục đạo lý làm người trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, đại đa số các gia đình phải có một điều kiện kinh tế tối thiểu mới có khả năng cho con theo học, bởi đã gửi con đi học thì phải đóng tiền học, trọ học, rồi thì tiền thăm viếng thầy trong những dịp tết nhất, ốm đau…Nên gia đình nghèo khó không thể gửi con theo học được. Mà số này chiếm phần đông trong cộng đồng dân cư làng xã Việt Nam trước đây.
Số còn lại, do có điều kiện kinh tế, cộng với cái chí hướng học hành của gia đình, nên các nho sinh “thập niên đăng hỏa” (mười năm đèn sách) đi học để quyết “đăng trường ứng thí”. Đi thi để quyết chiếm lấy cái bảng vàng. Vinh quang lớn nhất của nho sinh là học hành đỗ đạt. Một khi đã đỗ đạt thì cả dòng họ, cả làng, thậm chí cả tổng cả huyện nghênh đón, khao thưởng trọng vọng. Hình ảnh được coi là đẹp đẽ nhất đối với các nho sinh trong cái nhìn của các cô gái thôn quê Việt Nam trước kia là: “Ước gì em lấy được chàng/ Võng anh đi trước võng nàng theo sau”. Nỗi nhục lớn nhất của người đi học là thi trượt (Cười như anh khóa hỏng thi…). Đã trượt, nếu là người có chí cũng không dễ dàng đầu hàng, quyết về nhà dùi mài kinh sử để đến khóa sau lại thi tiếp. Người bỏ cuộc tức là chấp nhận thất bại. Mà đã thất bại, không chỉ bản thân mình thất vọng ê chề, mà cả gia đình, dòng họ, làng xóm và vị hôn thê tương lai (hoặc người vợ) cũng cảm thấy tủi hổ vô cùng. Việc anh đi học, đi thi không còn là chuyện của cá nhân anh, mà là chuyện của cộng đồng rồi. Nỗi phiền toái là ở đó. Chuyện này khác với phương Tây, nơi coi học hành chỉ là chuyện của riêng mỗi cá nhân mà thôi.
Chính vì mục đích của việc học là để đi thi, nên tinh thần giáo dục bao trùm là cử tử, nghĩa là ra sức học theo đúng phép tắc, đúng quy phạm, cốt sao thi đỗ. Và như vậy, thêm một lý do nữa để bồi thêm vào tình trạng học hành thụ động, máy móc, thủ tiêu sáng tạo cá nhân như trên kia đã đề cập.

3. Từ những điều vừa phân tích trên, một hệ quả tất yếu được rút ra: những người theo học trong nền khoa cử này coi cái đích cuối cùng của việc học là để ra làm quan, chứ không để trở thành trí thức độc lập. Có học có thi. Đỗ đạt thì được bổ làm các chức quan trong bộ máy chính quyền phong kiến. Không đỗ đạt, mà con số này là chủ yếu, thì không có con đường nào khác là đành trở về thôn quê làm hương sư (thày dạy học ở làng), hoặc làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Tuy nhiên với hạng người này, suốt đời vẫn cảm thấy chưa thỏa chí, vẫn canh cánh ôm trong lòng nỗi hận. Chả thế mà có người đến khi đã già lụ khụ rồi vẫn lều chõng đi thi để quyết rửa hận. Còn những người may mắn đỗ đạt, sau đó được bổ nhiệm làm quan. Làm quan bao giờ cũng kèm theo bổng lộc. Chế độ phong kiến quy định tùy từng mức đỗ đạt mà được bổ chức quan nào, và tùy từng chức quan này mà ban bổng lộc (ruộng đất, nhà cửa, lương lậu) tương ứng. Thêm nữa, khi đã có chức tước thì tất yếu sẽ có nhiều quyền lợi đi kèm. Đó là một môi trường khắc nghiệt để thử thách nhân cách. Có người xem môi trường quan chức là một mảnh đất màu mỡ cho sự trục lợi béo bở (Một người làm quan, cả họ được nhờ). Có người lại quyết phấn đấu để trở thành một ông quan thanh liêm, ra ân cho dân chúng, lập đức trong cộng đồng, khi chết đi được cộng đồng tưởng thưởng, ghi công ơn, lập ban thờ, trở thành bậc tiền hiền của cộng đồng. Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, số người này bao giờ cũng là “của hiếm” trong thiên hạ.
Điều đáng bàn ở chỗ là, số người sau khi trở thành quan chức rồi thì hầu hết không theo đuổi con đường chữ nghĩa nữa, mà yên phận trở thành một ông quan đúng nghĩa. Từ đây, sách vở, tri thức đối với họ trở thành xa lạ dần. Thậm chí, trong những trường hợp tệ hại nhất, có người quay lại thù địch với sách vở, tri thức nói chung. Nguyên nhân thì có nhiều. Có thể do họ bước vào đời sống quan trường phải vướng víu vào nhiều thứ công việc sự vụ, đến nỗi choán hết thời gian của họ. Có thể tự họ thấy ngần ấy vốn liếng tri thức học hành đã được coi là đủ, thậm chí là thừa cho công việc sự vụ quan trường. Trường hợp có người quay sang thù địch tri thức/ trí thức, bởi vì cái lòng ghen tị cố hữu ở họ khiến họ không thể nào chịu nổi khi thấy người khác giỏi giang hơn mình, xuất chúng hơn mình, được ca ngợi hơn mình. Thế là, từ một người có khả năng trở thành trí thức đã mau chóng trở thành một vị quan lại toàn phần, và quay lại xem thường, thậm chí đe nẹt, phỉ báng trí thức. Cái vòng luẩn quẩn ở chỗ đó. Môi trường quan chức bao giờ cũng dễ khiến người ta đứng trước nhiều nguy cơ hư hỏng.
 Một người làm quan mà cùng lúc lại có cốt cách trí thức trong mình là điều không dễ dàng gì. Phải là người có ý chí mãnh liệt, khả năng tu thân cao cường mới có thể trở thành một quan chức- trí thức. Kiểu người này, thường hay bị thua thiệt, hay bị hiểu lầm, thậm chí bị cô độc. Bởi vì anh không có khả năng xiểm nịnh, lấy lòng hòng trục lợi cấp trên. Những tấm gương trí thức- quan chức như Nguyễn Trãi, Chu Văn An đều hứng chịu những bi kịch khốc liệt của thời thế chính là do trong khi làm quan, các vị đã không chịu từ bỏ tư cách trí thức của mình.
Trong cuốn “Người Trung Quốc xấu xí”, tác giả Bá Dương trong khi so sánh quan niệm của người Trung Quốc với người phương Tây về vấn đề quan tính và người làm quan, ông có một khái quát hết sức táo bạo và có sức thức tỉnh lớn. Ông nói: “Đối với người phương Tây: tri thức là quyền lực. Đối với người Trung Quốc: quyền lực là tri thức”(2). Điều này có thể khẳng định rằng cũng hoàn toàn đúng đối với người Việt ta từ xưa tới nay.
4. Điểm cuối cùng mà tôi muốn nói tới hậu quả của việc học trong thời phong kiến làhọc để biết chứ không học để làm. Mặc dù lý tưởng của người nho sinh là phải trở thành bậc chính nhân quân tử, và biểu hiện cao nhất của lý tưởng này là hành đạo cứu đời, kinh bang tế thế. Với tinh thần ấy, thời nào cũng vậy, vẫn có một số nhà trí thức đem cái sở học của mình để nhập thế hành đạo. Tuy nhiên, cái tri thức do học được với cái yêu cầu của thực tế là khoảng cách một trời một vực. Thành ra, việc tự tu dưỡng, mở mang học vấn, tri thức là một việc làm suốt đời. Số người này bao giờ cũng ít ỏi. Còn lại đa phần là những người ở mức trung bình, đi ra cuộc đời quá lắm chỉ biết làm nghề dạy học, hoặc bốc thuốc, hoặc bói toán để mưu sinh (trên cơ sở của các tri thức nho, y, lý, số đã được trau dồi), chứ không áp dụng vào việc sản xuất, phát minh để làm lợi cho đời sống. Cái sở học của họ tuy cũng thu hoạch khá nhiều kiến thức, song cái học đó cốt để biết, chứ không đem ra thực hành được, tức là không để làm. Điều này đã được các lãnh tụ của phong trào Duy tân bàn bạc nhiều trong những năm đầu thế kỷ. Trong công cuộc Duy tân, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: “Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”.Chấn dân khí tức là làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự cường, hiểu được quyền lợi của mình, dám tố cáo sự hà hiếp bóc lột của quan lại và sự nhũng lạm của cường hào...Khai dân trí là bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục và thói xa hoa...Hậu dân sinh là khuyến khích dân học nghề nghiệp, khai hoang làm vườn, lập hội buôn và sản xuất hàng nội hóa...Trong bài Văn minh tân học sách (Khuyết danh, 1904), với một tinh thần canh tân giáo dục văn hóa nồng nhiệt, người viết cũng kêu gọi bỏ chữ nho, học chữ quốc ngữ, học các môn “cách vật trí tri” (các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật) để tập  trung vào thực học, thực nghiệp, khai trí văn minh.
Ngày hôm nay, tình trạng học để biết chứ không học để làm vẫn là một tình trạng khá phổ biến. Các học sinh của ta đi thi đấu quốc tế thường hay rớt điểm thực hành. Sinh viên các nơi ra trường không giỏi tay nghề, rất lúng túng khi tác nghiệp, hầu như phải xắn tay học lại từ đầu. Chả thế mà lúc sinh thời, trong tư tưởng giáo dục của Hồ Chủ tịch, người luôn đề cao và kêu gọi “Học đi đôi với hành”. Một trong những giờ giảng cuối cùng của Nhà nghiên cứu văn học, văn hóa và minh triết Hoàng Ngọc Hiến (1930-2011) tại Khoa Viết văn vào tháng 11.2010, khi bàn về minh triết Việt, ông cho rằng: “Minh triết là thực hành, chứ không phải là nói, là luận bàn. Cái Thiện là tối hậu. Như vậy, minh triết không phải là  luận bàn về cái Thiện mà làm cái thiện. Triết học cũng thực hành cái Thiện, nhưng phải đi bằng con đường rất dài, bắt đầu từ việc học nhiều môn khoa học khác, sau đó học tiếp một ngành tối cao là Khoa học về cái Thiện, rồi cuối cùng mới thực hành cái Thiện. Thế nên, những triết gia châu Âu bị mất hút vào con đường này, mải mê lý thuyết, sa vào mê cung lý thuyết, không mấy người đi thực hành cái Thiện (dĩ nhiên trong mê cung ấy, vẫn có những điều cao siêu có đóng góp cho nhân loại). Vấn đề của thời đại chúng ta hôm nay, thật đơn giản, đó là thực hành cái Thiện. Minh triết là lặng lẽ sống với cái Thiện bằng ứng xử, bằng việc làm của mình. Trong mối quan hệ giữa BIẾT và LÀM, thì với minh triết là LÀM, mặc dù BIẾT rất cần. Hồ Chủ tịch từng nói: “Học để làm việc, học để làm người, học để làm cán bộ”. Vậy là, cụ Hồ nhấn mạnh việc học để hướng tới 3 cái LÀM, chứ không dừng lại ở BIÊT. Theo tôi, toàn bộ nền giáo dục Việt Nam hiện nay chỉ  hướng tới việc để BIẾT thôi”(3). Đây là một khái quát hết sức sâu sắc, phản ánh đúng thực trạng giáo dục của nước ta hiện nay, rất đáng để cho những người làm công tác giáo dục và các nhà hoạch định chiến lược quốc gia về giáo dục suy nghĩ.
Trong những năm gần đây, tuy ngành giáo dục của đất nước rất được quan tâm và đầu tư, nhưng vẫn bộc lộ những khiếm khuyết nghiêm trọng. Vì thế, giáo dục luôn luôn là đề tài nóng, thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng, nhất là giới trí thức, có lúc đã tạo nên những cuộc tranh luận lớn. Có người cho rằng do chúng ta chưa tìm ra được một triết lý giáo thực sự làm điểm tựa để thay đổi căn bản và toàn diện nền giáo dục. Cũng có ý kiến cho rằng có những người cố tình duy trì một tình trạng giáo dục luẩn quẩn để dễ bề “đục nước béo cò”…Tôi nghĩ, ngoài việc tham chiếu lý thuyết và cách thức giáo dục của các nước tiên tiến, chúng ta cũng cần tham chiếu ngược về truyền thống giáo dục của nước ta từ xưa tới nay. Cả kinh nghiệm tốt lẫn thất bại đều là những bài học bổ ích cho chúng ta. Tuy nhiên, đó là nói ở cấp độ thực tiễn. Còn xét ở cấp độ tâm thức, những hạn chế như đã chỉ ra trên kia (có thể chưa phải đã hết) sẽ còn sống dai dẳng, sẽ còn là những trở ngại phiền toái trong đời sống giáo dục Việt Nam hiện nay và lâu dài. Thay đổi thực tiễn đã khó, thay đổi tâm thức càng khó hơn. Chỉ khi nào cả trên thực tế lẫn tâm thức được thay đổi vững chắc, khi đó mới có nền giáo dục hiện đại và tiến bộ